Tín dụng và những rủi ro tín dụng đối với một chuyên viên Tín dụng là gì? Và cách giám sát rủi ro tín dụng như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ được UB Academy tổng hợp và biên soạn.
Rủi ro được hiểu là những nguy cơ tiềm tàng có thể dẫn đến thiệt hại về vật chất; hoặc tinh thần. Một trong đặc tính của rủi ro là tính khó xác định (có thể xảy ra hay không; xảy ra lúc nào; và thiệt hại ở mức độ nào?). Do vậy trong hoạt động của con người cần tìm ra nhiều biện pháp để hạn chế thấp nhất việc xảy ra rủi ro; hoặc khi xảy ra có thể hạn chế tối đa thiệt hại.
Hoạt động ngân hàng được đánh giá là một trong những hoạt động kinh doanh tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cao. Những vụ việc gây đổ vỡ hệ thống tài chính của một quốc gia; không ít thì nhiều đều liên quan đến các ngân hàng và gây ra những thiệt hại to lớn. Rủi ro hoạt động ngân hàng được hiểu là những rủi ro có khả năng gây ra những tổn thất tài chính cho tổ chức tín dụng (TCTD); dẫn đến việc làm giảm năng lực kinh doanh và khả năng trả các khoản nợ; trong đó chủ yếu là các khoản tiền gửi.
Trong các loại rủi ro đối với hoạt động ngân hàng; TCTD phải đối mặt nhiều nhất là rủi ro tín dụng. Hiểu theo nghĩa rộng, rủi ro tín dụng là tất cả những khả năng mà theo đó; TCTD sẽ không thể thu hồi đầy đủ và đúng hạn các khoản tín dụng đã cấp. Nói cách khác, rủi ro tín dụng là việc khách hàng không trả đầy đủ những khoản nợ đối với TCTD theo đúng cam kết; dù với bất kì lí do gì. Rủi ro tín dụng sẽ gây nên những thiệt hại đối với TCTD; làm mất mát nguồn vốn; suy giảm khả năng chi trả và khả năng thanh toán các khoản nợ.
Những yếu tố cơ bản sau đây được xem là sẽ tác động đến mức độ rủi ro tín dụng của các ngân hàng:
Quá trình thẩm định hồ sơ đề nghị cấp tín dụng về bản chất có hai công đoạn:
Việc giám sát quá trình sử dụng vốn vay là quyền của TCTD để bảo vệ; trên cơ sở đảm bảo hoạt động bình thường của bên vay. Khả năng giám sát phụ thuộc rất nhiều vào tính minh bạch của thông tin mà TCTD có được từ những nguồn khác nhau. Đồng thời còn phụ thuộc vào khả năng đánh giá về những thông tin đó. Việc theo dõi, giám sát chặt chẽ các khoản cho vay có những tiêu chí phân loại và xử lí phù hợp sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng; đảm bảo khả năng trả nợ.
Đối với tài sản bảo đảm, việc định giá cần bám sát giá thị trường; và xác định được khả năng thanh khoản cao; hay thấp để quyết định mức cho vay phù hợp. Bên cạnh đó, trong quá trình cho vay; TCTD thường xuyên theo dõi giá trị của tài sản bảo đảm cũng góp phần không nhỏ trong việc đánh giá tính rủi ro của khoản vay.
Tình hình hoạt động của bên vay là yếu tố trực tiếp nhất ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Chính vì vậy mà rủi ro tín dụng được Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision – BCBS) định nghĩa là những rủi ro có nguyên nhân từ sự không chắc chắn về khả năng; hoặc độ sẵn sàng của một đối tác thực thi các nghĩa vụ trong hợp đồng. Nếu hoạt động kinh doanh của bên vay suôn sẻ; bên vay sẽ hoàn thành các nghĩa vụ đối với TCTD; nhưng ngược lại, những khó khăn trong hoạt động kinh doanh sẽ làm giảm khả năng chi trả của bên vay; do đó bên vay có thể không thực hiện đúng cam kết của mình.
Hệ thống pháp lí được coi là một trong những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến việc kiểm soát rủi ro của TCTD. Một hệ thống các quy định có tính khả thi; chặt chẽ và tương thích với các chuẩn mực quốc tế là cơ sở cần thiết nhằm đảm bảo khả năng kiểm soát tốt hơn đối với các rủi ro. Bên cạnh đó, sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với hoạt động của TCTD cũng mang ý nghĩa to lớn; nhằm ngăn chặn ngay từ đầu những nguy cơ xảy ra rủi ro; đặc biệt là những rủi ro có tính hệ thống. Đồng thời bằng lợi thế thông tin của mình; NHNN có thể đưa ra các khuyến nghị hữu ích; hoặc các mệnh lệnh để yêu cầu TCTD phải tuân thủ.
Hiện nay nhiều quốc gia và các ngân hàng trên thế giới đã và đang áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về hoạt động giám sát ngân hàng do Uỷ ban Basel ban hành. Quan điểm của Uỷ ban Basel là sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia có thể ảnh hưởng tới sự ổn định về tài chính không chỉ trong phạm vi quốc gia đó; mà trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế, vấn đề giám sát rủi ro của hệ thống ngân hàng được Uỷ ban này đặc biệt quan tâm.
Bộ nguyên tắc này bao gồm các nguyên tắc; và chuẩn mực mà hoạt động giám sát của ngân hàng trung ương nên thực hiện; bao hàm một số nhóm nội dung chủ yếu sau:
Là những nguyên tắc giám sát dành cho bản thân các ngân hàng, bao gồm những nội dung chính sau:
Việc xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả là một yêu cầu cấp thiết để đảm bảo hoạt động ngân hàng được an toàn, hạn chế rủi ro, từ đó tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong bối cạnh hội nhập.
Ngay từ khi Luật Các TCTD có hiệu lực, NHNN đã ban hành Quyết định số 03/1998/QĐ-NHNN3 ngày 03/01/1998 của Thống đốc NHNN ban hành “Quy chế về kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các TCTD“. Để nâng cao năng lực kiểm soát nội bộ và ngăn chặn rủi ro, cả rủi ro thị trường lẫn rủi ro hoạt động, ngày 01/6/2006, Thống đốc NHNN đã ra Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ban hành “Quy chế về kiểm soát nội bộ của TCTD” và Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ban hành “Quy chế về kiểm toán nội bộ của TCTD” thay thế cho Quyết định 03/1998/QĐ-NHNN3 nói trên.
Theo Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN, hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ và cơ cấu tổ chức của TCTD được thiết lập trên cơ sở phù hợp với quy định pháp luật hiện hành và được tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo phòng ngừa, phát hiện, xử lí kịp thời các rủi ro và đạt được các mục tiêu mà TCTD đã đặt ra. Mục đích tối thiểu được đặt ra đối với hệ thống kiểm soát nội bộ là:
Quy chế yêu cầu TCTD phải thường xuyên đánh giá và đo lường rủi ro bằng những quy trình minh bạch và hiệu quả, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của ban lãnh đạo TCTD, các phòng, ban chuyên môn trong việc xây dựng và quản lí hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như trách nhiệm của NHNN trong hoạt động giám sát TCTD. Tuỳ thuộc vào yêu cầu cụ thể mà TCTD có thể thành lập bộ phận chuyên trách về kiểm soát nội bộ trực thuộc sự điều hành của Tổng Giám đốc TCTD.
Để hỗ trợ thực hiện các yêu cầu trên, hệ thống kiểm toán nội bộ được thành lập và hoạt động theo Quyết định 37/2006/QĐ-NHNN. Theo quyết định này, kiểm toán nội bộ của TCTD là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ; đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục quy trình đã được thiết lập trong TCTD, thông qua đó đơn vị thực hiện kiểm toán nội bộ đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các hệ thống, các quy trình, quy định, góp phần đảm bảo TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật.
Quy chế kiểm toán nội bộ đã xác định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của bộ máy kiểm toán nội bộ cũng như của các chức danh lãnh đạo TCTD trong hoạt động kiểm toán nội bộ tại TCTD.
Trên thực tế, việc triển khai các yêu cầu trong các quy chế kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ đã được tiến hành, tuy nhiên hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của TCTD còn nhiều vấn đề phải tiếp tục thực hiện. Nhiều TCTD lớn hiện nay vẫn chưa hoàn thiện quy trình kiểm soát của mình theo đúng tinh thần của Quyết định 36/2006/QĐ-NHNN.
Chính vì vậy, NHNN trong thời gian qua đã có nhiều chỉ thị yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm chỉnh các biện pháp kiểm soát nhằm đảm bảo an toàn, như chỉ thị số 02/2006/CT-NHNN ngày 23/5/2006 về việc tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các TCTD, chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN về việc kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và một số văn bản khác.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, Quyết định 36/2006/QĐ-NHNN vẫn bộc lộ một số bất cập sau đây:
Thứ nhất, việc cho phép TCTD được quyền thành lập hoặc không thành lập bộ phận chuyên trách để kiểm soát nội bộ trực thuộc Tổng Giám đốc TCTD đã vô tình tạo ra hai bộ máy kiểm soát trong TCTD, vì theo quy định của Luật các TCTD, TCTD phải có Ban kiểm soát. Theo quy định hiện hành, Ban kiểm soát có vai trò độc lập với Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc, chịu sự giám sát trực tiếp của Đại hội cổ đông hoặc Hội đồng thành viên của TCTD. Trong khi đó, Ban kiểm soát cũng được quy định nhiệm vụ kiểm soát rủi ro trong hoạt động của TCTD.([vii])
Thứ hai, việc cho phép bộ phận kiểm soát độc lập chuyên trách trực thuộc Tổng Giám đốc sẽ không tạo ra cơ chế đánh giá khách quan. Thiết nghĩ, bộ phận này ít nhất phải nên thuộc sự điều hành của Hội đồng quản trị. Theo chúng tôi, hoạt động kiểm soát nội bộ là trách nhiệm của cả hệ thống, không cần thiết phải thành lập một bộ phận độc lập, điều này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, tránh sự trùng lắp không cần thiết.
Một trong những yêu cầu của hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng là việc TCTD phải thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Phân loại nợ là một biện pháp nghiệp vụ – pháp lí nhằm xếp một khoản nợ vào một nhóm nhất định dựa trên việc đánh giá về khả năng thu hồi khoản nợ ấy. Tại Điều 82 Luật Các tổ chức tín dụng có ghi nhận nghĩa vụ của TCTD phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Khoản dự phòng rủi ro này phải được hạch toán vào chi phí hoạt động.
Việc phân loại tài sản “Có”, mức trích, phương pháp lập khoản dự phòng và việc sử dụng khoản dự phòng để xử lí các rủi ro trong hoạt động ngân hàng do Thống đốc NHNN quy định sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ tài chính. Để thực hiện quy định trên, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định 488/2000/QĐ-NHNN5 ngày 27/11/2000 ban hành Quy định về việc phân loại tài sản “có”, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Tuy nhiên, văn bản này vẫn còn nhiều bất cập và chưa thực sự quan tâm đến công tác phân loại nợ ngay từ khi khoản nợ đó chưa quá hạn. Bên cạnh đó, quyết định 488/2000/QĐ-NHNN5 không xác định vai trò của tài sản bảo đảm đối với việc trích lập dự phòng, do đó đã không khuyến khích được các TCTD thực hiện các biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
Chính vì vậy, ngày 22/4/2005, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD thay thế cho Quyết định 488/2000/QĐ-NHNN5.
Quyết định này được đánh giá là tương đối phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, theo đó, các khoản nợ của TCTD được phân loại thành 5 nhóm với mức độ tăng dần của rủi ro. Hàng quý, ít nhất một lần TCTD phải xếp hạng lại các khoản nợ cho phù hợp với tình hình thực tế. Tỉ lệ trích lập dự phòng đối với các nhóm tương ứng là 0%, 5%, 20%, 50% và 100% so với giá trị khoản nợ sau khi đã trừ đi giá trị của tài sản bảo đảm. Ngoài việc trích lập dự phòng cụ thể, TCTD cũng phải trích lập dự phòng chung bằng 0,75% tổng dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Sau 2 năm thực hiện, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN đã bộc lộ một số bất cập. Một là, những quy định về phân loại nợ, chuyển các khoản nợ sang nhóm có rủi ro thấp hơn hoặc rủi ro cao hơn vẫn còn chung chung, khó áp dụng chính xác, chưa đề cập hết các trường hợp khoản nợ được cơ cấu lại lần thứ hai. Hai là, chưa thực sự tạo ra sự chủ động cho TCTD trong việc đánh giá mức độ rủi ro của các khoản nợ trong quá trình giám sát.
Chính vì vậy, ngày 25/4/2007, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định 18/2007/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.
Nội dung sửa đổi tập trung vào những hạn chế của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, theo đó, các khoản nợ được xếp loại chặt hơn về mức độ kiểm soát rủi ro, đồng thời nhấn mạnh hơn đến vai trò của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của TCTD (đã được yêu cầu thành lập theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN).
Bên cạnh đó, Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN còn xây dựng lại bảng tỉ lệ khấu trừ tối đa đối với giá trị tài sản bảo đảm theo hướng đánh giá trên cơ sở mức độ an toàn, hạn chế việc đánh giá theo chủ thể phát hành (mặc dù vẫn phân biệt nếu chủ thể đó là nhà nước). Những sửa đổi này là cần thiết và đảm bảo cho hoạt động dự phòng và xử lí rủi ro được thực hiện tốt hơn.
Tuy nhiên, các quy định hiện hành về phân loại nợ, trích lập dự phòng vẫn còn có một số hạn chế sau đây:
Các tỉ lệ đảm bảo an toàn được NHNN quy định với mục đích đảm bảo cho TCTD có khả năng chống đỡ được các rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Sau khi Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực, ngày 25/8/1999, Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN5 về giới hạn cho vay đối với một khách hàng; và Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ban hành Quy định về tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD (sau đó được sửa đổi bởi Quyết định 381/2003/QĐ-NHNN ngày 23/4/2003); Quyết định số 492/2000/QĐ-NHNN5 ban hành Quy định về việc góp vốn, mua cổ phần của TCTD.
Các Quyết định trên đã được thay thế bởi Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 ban hành Quy định về tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007). Các tỉ lệ bảo đảm an toàn được yêu cầu TCTD tuân thủ bao gồm:
Điểm đáng chú ý của Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN là ở chỗ, quyết định này yêu cầu các TCTD phải đảm bảo tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu ở mức 8% (là tỉ lệ giữa vốn tự có và tổng tài sản Có đã nhân với hệ số rủi ro) là phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, trong quyết định này chỉ xác định các hệ số rủi ro ở các mức 0%, 20%, 50% và 100%.
Quyết định 03/2007/QĐ-NHNN đã bổ sung nhiều nội dung về các nhóm tài sản “có”, đồng thời bổ sung hệ số rủi ro 150% cho một số khoản cho vay chứng khoán, các khoản vay dành cho doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát, các khoản góp vốn, mua cổ phần vào các doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, trừ phần đã khấu trừ ra khỏi vốn tự có theo quy định.
Những yêu cầu này phù hợp với các chuẩn mực quốc tế được ghi nhận trong bộ nguyên tắc Basel. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, việc nâng hệ số rủi ro như vậy đã làm cho các TCTD hiện nay hầu như chưa đáp ứng được tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu. Chính vì vậy đòi hỏi các TCTD phải có những giải pháp kinh doanh hợp lí và hiệu quả, cũng như phải thực hiện việc huy động vốn sở hữu nhằm đảm bảo tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của pháp luật.
Về bản chất, hoạt động giám sát của NHNN đối với các TCTD có những điểm khác biệt so với hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lí nhà nước khác. Bởi lẽ, NHNN thực hiện hoạt động giám sát không chỉ với tư cách là cơ quan quản lí nhà nước mà còn có tư cách là Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của TCTD. Chính vì vậy, việc giám sát của NHNN được đánh giá là rất quan trọng trong việc đảm bảo sự an toàn trong hoạt động của TCTD.
Hiện nay, hoạt động giám sát của NHNN chủ yếu do Thanh tra NHNN thực hiện. Theo Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 4/9/1999 thì “mục đích hoạt động của thanh tra ngân hàng là nhằm góp phần bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia”.
Trong Thông tư số 04/2000/TT-NHNN3 của NHNN hướng dẫn Nghị định 91/1999/NĐ-CP nói trên có quy định cụ thể về nội dung giám sát của Thanh tra NHNN là:
“Thực hiện giám sát thường xuyên việc thực hiện các quy chế an toàn trong hoạt động của các TCTD bằng phương pháp giám sát từ xa theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước”. Những hoạt động giám sát của Thanh tra NHNN còn được ghi nhận trong Quy chế tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng được ban hành kèm theo Quyết định 1675/2004/QĐ-NHNN ngày 23/12/2004 của Thống đốc NHNN.
Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, thẩm quyền của Thanh tra NHNN cũng tương tự như các thanh tra chuyên ngành khác; chỉ có chức năng quản lí nhà nước và do đó, việc giám sát còn mang nặng tính hành chính, nghiêng về xử lí các sai phạm và khắc phục hậu quả mà thiếu những khuyến nghị cần thiết và kịp thời đối với từng TCTD nói riêng và đối với hệ thống TCTD nói chung. Những nội dung của hoạt động giám sát cũng không được quy định cụ thể, dẫn đến công tác giám sát hiện nay chưa đạt được hiệu quả mong muốn.
Trong khi đó, hoạt động giám sát của NHNN cần thiết phải có sự phối hợp thực hiện của các cơ quan hữu quan, đặc biệt Bộ Tài chính và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Hiện nay, sự phối hợp của các cơ quan này chưa được quy định cụ thể và thiếu minh bạch.
Để đảm bảo cho hoạt động giám sát của NHNN thực hiện có hiệu quả; cần thiết phải sớm xây dựng khung pháp lí riêng về hoạt động giám sát bằng Luật giám sát an toàn hoạt động ngân hàng; tương tự như trong “Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” ban hành kèm theo Quyết định 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định.
Có thể nhận thấy, việc kiểm soát rủi ro tín dụng là một nội dung quan trọng trong việc đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng; đã và đang được quy định ngày một đầy đủ và minh bạch hơn.
Trên đây là những rủi ro tín dụng mà một nhân viên Tín dụng có thể gặp phải. Hi vọng bài viết đã giúp bạn giải hiểu hơn về công việc này. Đừng quên theo dõi chuyên mục Điểm tin UB Academy và Diễn đàn U&Bank để cập nhật những tin tức mới nhất về ngành Ngân hàng.
Thời gian thu học phí: Thứ 2 đến thứ 6 sáng từ 8h30 đến 11h30, chiều từ 13h30 đến 17h riêng thứ 7 từ 8h30 đến 11h30. Trường hợp đóng học phí vào giờ khác, vui lòng gọi Hotline để được hỗ trợ trước khi đến văn phòng. Địa chỉ cụ thể như sau:
Tầng 3 – Số 273 Đội Cấn – Phường Ngọc Hà – Ba Đình – TP. Hà Nội.
Hotline: 024.3999.2518 | Email: [email protected]
Tầng 3 – Số 273 Đội Cấn – Phường Ngọc Hà – Ba Đình – TP. Hà Nội.
Hotline: 024.3999.2518 | Email: [email protected]
Cú pháp chuyển khoản “Họ và tên – Số điện thoại – NHCSXH – hình thức học” (viết không dấu) về tài khoản sau:
Chủ tài khoản: Nguyễn Thị Chuyên
Số tài khoản: 0011004290015
Ngân hàng Vietcombank Sở giao dịch
Bạn đăng ký chuyên đề Quan hệ khách hàng, học Online thì chuyển khoản học phí với nội dung ghi chú như sau: Nguyen Van A – 0984.090.xxx – NHCSXH
Bạn sẽ nhận được thông tin về khoá học sau khi thanh toán học phí thành công.